223. Vì sao điều kiện kinh doanh tăng nhiều, giảm ít? (CP)
( 21/09/2017 )
“Ngoài các điều kiện kinh doanh theo luật định, thì còn nhiều loại yêu cầu tương tự như điều kiện kinh doanh “trá hình” khác vẫn ngày đêm phát tác và oanh tạc doanh nghiệp. Đó là những điều kiện kinh doanh vi hiến, trái luật, không cần thiết, hạn chế vô lý quyền tự do kinh doanh, gây tốn kém, lãng phí, méo mó nền kinh tế”.
Chính phủ (Kinh tế) 21-9-2017:
http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Vi-sao-dieu-kien-kinh-doanh-tang-nhieu-giam-it/317270.vgp
Vì sao
điều kiện kinh doanh tăng nhiều, giảm ít?
(Chinhphu.vn) – Không ít quy
định mang tính đột phá về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong Luật Đầu tư năm
2014 và Luật Doanh nghiệp năm 2014 đang bị bóp méo.

|
Các điều kiện kinh doanh đang tạo ra nhiều rào cản với doanh nghiệp. -
Ảnh minh họa
|
Nguyên
tắc rõ ràng…
Điều 33
Hiến pháp năm 2013, Điều 7 về “Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện”,
Luật Đầu tư năm 2014; khoản 2 Điều 2 về “Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền dân sự”, Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Hình sự năm 2015 thì
quyền tự do kinh doanh của cá nhân và pháp nhân đã được quy định một cách rõ
ràng với một loạt nội dung như sau:
Thứ
nhất, “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật
không cấm”.
Thứ
hai, “Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Thứ ba,
“Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là ngành, nghề mà việc thực hiện
hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý
do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng”.
Thứ tư,
danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện phải được quy định trong
Luật. Chính vì vậy, năm 2016 Quốc hội đã phải sửa Luật đầu tư, sửa 267 thành
243 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện;
Thứ
năm, điều kiện đầu tư kinh doanh phải được quy định tại các luật, pháp lệnh,
nghị định; không thừa nhận bất kỳ các quy định nào trong thông tư của các bộ và
văn bản của chính quyền địa phương.
Thứ
sáu, “điều kiện đầu tư kinh doanh phải bảo đảm công khai, minh bạch, khách
quan, tiết kiệm thời gian, chi phí tuân thủ của nhà đầu tư”.
Thứ
bảy, “điều kiện đầu tư kinh doanh phải được đăng tải trên Cổng thông tin đăng ký
doanh nghiệp quốc gia”.
Thứ
tám, “Chính phủ quy định chi tiết việc công bố và kiểm soát điều kiện đầu tư
kinh doanh”.
… nhưng
thực tế vẫn rối
Từ chỗ
quá nhiều ngành, nghề kinh doanh có điều kiện mơ hồ nằm rải rác ở hàng trăm văn
bản quy phạm pháp luật, Luật Đầu tư năm 2014 đã đặt ra nguyên tắc rõ ràng và
liệt kê cụ thể Danh mục 267 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và tiếp
tục được giảm xuống còn 243 vào năm 2016.
Tuy
nhiên, việc này không phải là đồng nghĩa với việc giảm được 24 ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện, mà phần lớn là giảm do sắp xếp lại, thay đổi từ ngữ và sáp
nhập một số ngành, nghề vào nhau. Ví dụ có 4 ngành, nghề liên quan đến vàng là
“kinh doanh mua, bán vàng miếng”, “sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên
liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng” và “sản xuất vàng
trang sức, mỹ nghệ”, đã được dồn lại thành 1 ngành nghề kinh doanh có điều kiện
duy nhất là “kinh doanh vàng”.
Vừa qua
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã kiến nghị bỏ bớt 26/243 ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện, vì lý do có 16 điều kiện kinh doanh chưa phù hợp
và 10 ngành, nghề có phạm vi kiểm soát chưa phù hợp như trong lĩnh vực khai
khoáng, phân bón, xuất gạo, nhập xăng, bán gas, buôn rượu, chạy taxi, sản xuất
mũ bảo hiểm...
Tuy nhiên,
các điều kiện kinh doanh để cụ thể hoá 243 ngành, nghề kinh doanh nêu trên mới
là vấn đề rắc rối. Ví dụ ngành, nghề “kinh doanh thực phẩm” là khái niệm quá
rộng, lại đồng thời thuộc lĩnh vực quản lý chuyên ngành của 3 Bộ (Bộ Công
Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Y tế).
4 nhóm
quy định tương tự điều kiện kinh doanh
Khoản
2, Điều 7 về “Ngành, nghề và điều kiện kinh doanh”, Luật Doanh nghiệp năm 2005
trước đây đã từng quy định: “Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp
phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện
bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ
hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp
định hoặc yêu cầu khác”.
Hiện
nay, mặc dù Luật Doanh nghiệp năm 2015 không quy định rõ, nhưng vẫn có thể hiểu
rằng, điều kiện kinh doanh được thể hiện thông qua 6 loại điều kiện nêu trên.
Nội dung mới của Luật Đầu tư so với Luật Doanh nghiệp năm 2005 về điều kiện
kinh doanh là, các điều kiện đó phải “vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Ngoài 6
nhóm điều kiện kinh doanh như nêu trên, vẫn còn ít nhất 4 nhóm quy định dưới
đây có thể quy về thực chất là tương tự với điều kiện kinh doanh:
Thứ
nhất, yêu cầu về quy hoạch. Việc đưa ra quá nhiều quy hoạch và quy hoạch nhiều
ngành, nghề quá chi tiết (Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thống kê được tới 3.372 bản
quy hoạch ngành, sản phẩm), đã dẫn đến tình trạng tương tự như ngăn cấm, gây
trở ngại, khó khăn cho quyền tự do hoạt động đầu tư kinh doanh. Ví dụ, “Quy
hoạch thương nhân, kinh doanh xuất khẩu gạo” của Bộ Công Thương, nhưng nay đã
được Bộ này bãi bỏ.
Thứ
hai, yêu cầu về quy chuẩn kỹ thuật. Nhiều trường hợp quy định quy chuẩn kỹ
thuật quá cao, dẫn đến không thể thực hiện được hay quá cụ thể, chi tiết, can
thiệp vào giải pháp, quyền chủ động kinh doanh. Ví dụ “Yêu cầu tiêu chuẩn nước
thải chăn nuôi” theo QCVN 40:2011/BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường quá
cao, đòi hỏi các chỉ tiêu chất thải trong chăn nuôi rất thấp, thấp hơn cả yêu
cầu của các nước phát triển như châu Âu, Nhật Bản, Thái Lan...
Thứ ba,
yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng. Việc công bố tiêu chuẩn chất lượng là tự
nguyện, ngoài một số hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp bắt buộc phải công bố
tiêu chuẩn chất lượng như thực phẩm. Dù là công bố bắt buộc hay tự nguyện thì
doanh nghiệp cũng buộc phải đạt tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Ví dụ,
khi kinh doanh nước chấm, doanh nghiệp phải đáp ứng được yêu cầu về “Quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia đối với giới hạn ô nhiễm kim loại nặng trong thực phẩm” ký
hiệu QCVN 8-2:2011/BYT đã quy định giới hạn tỷ lệ asen vô cơ (thạch tín) đối
với nước chấm là 1,0 mg/kg hoặc mg/lít. Đồng thời còn phải công bố tiêu chuẩn
chất lượng nước chấm.
Thứ tư,
yêu cầu về thủ tục hành chính (chưa có luật, mà chỉ có Nghị định số
63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ về “Kiểm soát thủ tục hành chính”).
Với nhiều thủ tục phức tạp, phiền hà, rắc rối, tiêu cực, tốn kém đã ảnh hưởng
nhiều đến hoạt động kinh doanh.
Ngoài
các điều kiện kinh doanh theo luật định, thì còn nhiều loại yêu cầu tương tự như
điều kiện kinh doanh “trá hình” khác vẫn ngày đêm phát tác và “oanh tạc” doanh
nghiệp, vô lý quyền tự do kinh doanh, gây tốn kém, lãng phí, méo mó nền kinh
tế.
Trên
thực tế trong thời gian gần đây, điều kiện kinh doanh đang được chuyển đổi qua
lại giữa các hình thức nói trên. Điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính đã
được quan tâm giải quyết theo hướng đơn giản hóa và thông thoáng. Nhưng các vấn
đề quy hoạch, quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn chất lượng thì còn ít được quan
tâm. Đặc biệt là tình trạng các cơ quan nhà nước “lách” điều kiện kinh doanh
theo quy định của luật và nghị định, thuộc thẩm quyền ban hành của Quốc hội và
Chính phủ, thành quy chuẩn chất lượng theo quy định của thông tư, chỉ thuộc
thẩm quyền ban hành của Bộ.
Do các
quy định về điểu kiện kinh doanh còn quá phức tạp, rắc rối, nên đã dẫn đến sự
đánh giá, kiểm đếm cho ra các con số cũng rất khác nhau. Theo số liệu gần đây
nhất, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã thống kê được 3.407
điều kiện kinh doanh, còn Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã
thống kê được 5.719 điều kiện kinh doanh thể hiện dưới mọi hình thức.
Kinh tế
thị trường và điều kiện kinh doanh
Có thể
nói, kinh tế thị trường đồng nghĩa với tự do kinh doanh, và tự do kinh doanh
đồng nghĩa với việc phải giảm thiểu điều kiện kinh doanh.
VCCI đã
đề xuất cắt bỏ 26 ngành, nghề kinh doanh. Còn CIEM đã đề xuất và được Thủ tướng
Chính phủ đồng ý chỉ đạo nghiên cứu cắt bỏ hơn 2.000 điều kiện kinh doanh, tức
là bỏ gần 2/3. Thậm chí, tại cuộc họp của Tổ công tác thi hành Luật Doanh
nghiệp và Luật Đầu tư ngày 30/8/2017, ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM
cho rằng, đúng ra phải đề xuất cắt bỏ khoảng 3.000 điều kiện kinh doanh.
Yêu cầu
cất bỏ phần lớn điều kiện kinh doanh không có nghĩa là buông quản lý, mà là sự
thay đổi tư duy và cách thức quản lý, thật sự chuyển đổi từ tiền kiểm sang hậu
kiểm. Đã đến lúc cần phải dứt khoát chuyển một phần lớn điều kiện kinh doanh
thành tiêu chuẩn chất lượng (là tự nguyện, không phải là bắt buộc), một phần
nhỏ chuyển thành quy chuẩn chất lượng (bắt buộc) và chỉ để lại rất ít điều kiện
kinh doanh buộc phải đáp ứng được trước khi bắt tay vào kinh doanh. Tức là hàng
hoá, dịch vụ vẫn cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn nhất định, nhưng
không phải tất cả là bắt buộc và chủ yếu là yêu cầu tại thời điểm đưa sản phẩm
ra thị trường chứ không phải là tại thời điểm chưa tiến hành sản xuất, kinh
doanh.
Biện
pháp kiến tạo, hỗ trợ doanh nghiệp tốt nhất chính là việc nhanh chóng cắt giảm
toàn bộ các điều kiện kinh doanh bất hợp lý, gây khó khăn, cản trở cho sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Luật sư Trương Thanh Đức
Bài viết gửi đăng Báo Chinhphu.vn Hà
Nội 14-9-2017
Điều kiện kinh doanh tăng nhanh, giảm chậm
Luật sư Trương
Thanh Đức
Chủ
tịch HĐTV Công ty Luật BASICO
Trọng
tài viên VIAC
Những quy định mang
tính đột phá về điều kiện đầu tư, kinh doanh trong Luật Đầu tư năm 2014 và Luật
Doanh nghiệp năm 2014 đang bị bóp méo vì quan điểm cái cách nửa vời, thỏa hiệp,
dễ dãi và thiếu đồng bộ.
Nguyên
tắc xác định ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì rõ ràng
Điều 33 Hiến pháp năm 2013, Điều 7 về “Ngành,
nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện”, Luật Đầu tư năm 2014;
khoản 2 Điều 2 về “Công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự”, Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Hình sự năm
2015 thì quyền tự do kinh doanh của cá nhân và pháp nhân đã được quy định một
cách rõ ràng với một loạt nội dung như sau:
Thứ nhất, “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành
nghề mà pháp luật không cấm”;
Thứ hai, “Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”;
Thứ ba, “Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là
ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó
phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”;
Thứ tư, danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện phải
được quy định trong Luật. Chính vì vậy, năm 2016 Quốc hội đã phải sửa Luật đầu
tư, sửa 267 thành 243 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện;
Thứ năm, điều kiện đầu tư kinh doanh phải được quy định tại các
luật, pháp lệnh, nghị định; không thừa nhận bất kỳ các quy định nào trong Thông
tư của các bộ và văn bản của chính quyền địa phương;
Thứ sáu, “điều kiện đầu tư kinh doanh phải bảo đảm công khai,
minh bạch, khách quan, tiết kiệm thời gian, chi phí tuân thủ của nhà đầu tư”;
Thứ bày, “điều kiện đầu tư kinh doanh phải được đăng tải trên
Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia”;
Thứ tám, “Chính phủ quy định chi tiết việc công bố và kiểm soát
điều kiện đầu tư kinh doanh”.
Nhưng trên thực tế
thì vẫn còn rối
Từ chỗ quá nhiều ngành, nghề kinh doanh có điều kiện mơ
hồ nằm rài rác ở hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật, Luật Đầu tư năm 2014 đã
đặt ra nguyên tắc rõ ràng và liệt kê cụ thể Danh mục 267 ngành, nghề đầu tư
kinh doanh có điều kiện và tiếp tục được giảm xuống còn 243 vào năm 2016. Tuy
nhiên, việc này không phải là đồng nghĩa với việc giảm được 24 ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện, mà phần lớn là giảm do sắp xếp lại, thay đổi từ ngữ và sáp
nhập một số ngành, nghề vào nhau. Ví dụ có 4 ngành, nghề liên quan đến vàng là
“kinh doanh mua, bán vàng miếng”, “sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên
liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng” và “sản xuất vàng
trang sức, mỹ nghệ”, đã được dồn lại thành 1 ngành nghề kinh doanh có điều kiện
duy nhất là “kinh doanh vàng”.
Vừa qua VCCI đã kiến nghị bỏ bớt 26/243 ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện, vì lý do có 16 điều kiện kinh doanh chưa phù hợp và 10 ngành,
nghề có phạm vi kiểm soát chưa phù hợp như trong lĩnh vực khai khoáng, làm
phân, xuất gạo, nhập xăng, bán gas, buôn rượu, chạy taxi, sản xuất mũ bảo
hiểm,...
Tuy nhiên, các điều kiện kinh doanh để cụ thể hoá 243
ngành, nghề kinh doanh nêu trên mới là vấn đề rắc rối. Vì nhiều ngành, nghề đầu
tư kinh doanh có điều kiện vẫn còn khá mơ hồ theo Luật, nên dẫn đến tình trạng
nghị định, thông tư có thể tha hồ mở rộng. Ví dụ, ngành, nghề “kinh doanh thực
phẩm” là khái niệm quá rộng, lại đồng thời thuộc lĩnh vực quản lý chuyên ngành
của 3 Bộ (Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Y tế).
Như vậy, có thể dẫn đến tình trạng không có giới hạn trong việc quy định chi
tiết thi hành và hướng dẫn về điều kiện kinh doanh thực phẩm mà vẫn đúng luật.
Điều kiện kinh doanh tăng nhiều, giảm ít
Khoản 2, Điều 7 về
“Ngành, nghề và điều kiện kinh doanh”, Luật Doanh nghiệp năm 2005 trước đây đã từng quy định:
“Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện
khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh,
giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác”.
Hiện nay, mặc dù Luật Doanh nghiệp năm 2015 không quy
định rõ, nhưng vẫn có thể hiểu rằng, điều kiện kinh doanh được thể hiện thông
qua 6 loại điều kiện nêu trên. Nội dung mới của Luật Đầu tư so với Luật Doanh
nghiệp năm 2005 về điều kiện kinh doanh đó là, các điều kiện đó phải “vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe
của cộng đồng”.
Ngoài 6 nhóm điều kiện kinh doanh như nêu trên, vẫn còn
ít nhất 4 nhóm quy định dưới đây có thể quy về thực chất là tương tự với điều
kiện kinh doanh:[2]
Thứ nhất, yêu cầu về quy hoạch (theo Luật quy hoạch đô thị năm
2009 và Luật quy hoạch dự kiến thông qua vào năm 2017). Việc đưa ra quá nhiều
quy hoạch và quy hoạch nhiều ngành, nghề quá chi tiết (Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
thống kê được tới 3.372 bản quy hoạch ngành, sản phẩm), đã dẫn đến tình trạng
tương tự như ngăn cấm, gây trở ngại, khó khăn cho quyền tự do hoạt động đầu tư
kinh doanh. Ví dụ, “Quy hoạch thương nhân, kinh doanh xuất khẩu gạo” của Bộ
Công thương đã đưa ra các tiêu chí quá cao, dẫn đến tình trạng loại bỏ đa số
doanh nghiệp xuất khẩu gạo[3];
Thứ hai, yêu cầu về quy chuẩn kỹ thuật (theo Luật tiêu chuẩn và
quy chuẩn kỹ thuật năm 2006). Việc quy định quy chuẩn kỹ thuật quá cao, dẫn đến
không thể thực hiện được hay quá cụ thể, chi tiết, can thiệp vào giải pháp,
quyền chủ động kinh doanh. Ví dụ “Yêu cầu tiêu chuẩn nước thải chăn nuôi” theo
QCVN 01-15: 2010/BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quá cao[4];
Thứ ba, yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng (theo Luật tiêu chuẩn
và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006). Việc công bố tiêu chuẩn chất lượng là tự
nguyện, ngoài một số hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp bắt buộc phải công bố
tiêu chuẩn chất lượng như thực phẩm. Dù là công bố bắt buộc hay tự nguyện thì
doanh nghiệp cũng buộc phải đạt tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Ví dụ,
khi kinh doanh nước chấm, doanh nghiệp phải đáp ứng được yêu cầu về “Quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia đối với giới hạn ô nhiễm kim loại nặng trong thực phẩm” ký
hiệu QCVN 8-2:2011/BYT[5] đã quy định giới hạn tỷ lệ asen vô cơ (thạch tín) đối
với nước chấm là 1,0 mg/kg hoặc mg/lít. Đồng thời còn phải công bố tiêu chuẩn
chất lượng nước chấm;
Thứ tư, yêu cầu về thủ tục hành chính (chưa có luật, mà chỉ có
Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08-6-2010 của Chính phủ về “Kiểm soát thủ tục
hành chính”). Với nhiều thủ tục phức tạp, phiền hà, rắc rối, tiêu cực, tốn kém
đã ảnh hưởng nhiều đến hoạt động kinh doanh.
Ngoài các điều kiện kinh doanh theo luật định, thì còn
nhiều loại yêu cầu tương tự như điều kiện kinh doanh “trá hình” khác vẫn ngày
đêm phát tác và oanh tạc doanh nghiệp. Đó là những điều kiện kinh doanh vi
hiến, trái luật, không cần thiết, hạn chế vô lý quyền tự do kinh doanh, gây tốn
kém, lãng phí, méo mó nền kinh tế.
Như vậy, trên thực tế trong thời gian gần đây, điều
kiện kinh doanh đang được chuyển đổi qua lại giữa các hình thức nói trên. Điều
kiện kinh doanh và thủ tục hành chính đã được quan tâm giải quyết theo hướng
đơn giản hóa và thông thoáng. Nhưng các vấn đề quy hoạch, quy chuẩn kỹ thuật và
tiêu chuẩn chất lượng thì còn ít được quan tâm. Đặc biệt là các cơ quan nhà
nước lách điều kiện kinh doanh theo quy định của Luật và Nghị định, thuộc thẩm
quyền ban hành của Quốc hội và Chính phủ, thành quy chuẩn chất lượng theo quy
định của Thông tư, chỉ thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ.
Do các quy định về điểu kiện kinh doanh còn quá phức
tạp, rắc rối, nên đã dẫn đến sự đánh giá, kiểm đếm cho ra các con số cũng rất
khác nhau. Theo số liệu gần đây nhất, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung
ương (CIEM) đã thống kê được 3.407 điều kiện kinh doanh, còn Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã thống kê được 5.719 điều kiện kinh doanh thể
hiện dưới mọi hình thức.
Yêu cầu cắt bỏ điều kiện kinh doanh
Có thể nói, kinh tế thị trường đồng nghĩa với tự do
kinh doanh, và tự do kinh doanh đồng nghĩa với việc phải giảm thiểu điều kiện
kinh doanh. Yêu cầu cắt bỏ điều kiện kinh doanh không phải là chuyện mới. Cách
đây 17 năm, Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg ngày 03-2-2000 của Thủ tướng Chính phủ
đã bãi bỏ 84 giấy phép trái với quy định của Luật Doanh
nghiệp. Rồi Nghị định số 30/2000/NĐ-CP ngày 11-8-2000
của Chính phủ đã bãi bỏ 27 giấy phép và chuyển 34 giấy phép thành điều kiện
kinh doanh. Và Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 04-6-2002 của Chỉnh phủ đã bãi
bỏ và thay thế 16 giấy phép kinh doanh. Đáng tiếc là sau từng ấy năm, sau khi
đã có Luật Doanh nghiệp năm 2005, Hiến pháp năm 2013, Luật Doanh nghiệp và Luật
Đầu tư năm 2015, nhưng các điều kiện kinh doanh vẫn ngày càng sinh sôi, nảy nở,
cản trở quyền tự do kinh doanh.
VCCI đã đề xuất cắt bỏ 26 ngành, nghề kinh doanh. Còn
CIEM đã đề xuất và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý chỉ đạo nghiên cứu cắt bỏ hơn
2.000 điều kiện kinh doanh, tức là bỏ gần 2/3. Thậm chí, tại cuộc họp của Tổ
công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư ngày 30-8-2017, ông Nguyễn
Đình Cung, Viện trưởng CIEM cho rằng, đúng ra phải đề xuất cắt bỏ khoảng 3.000
điều kiện kinh doanh.
Yêu cầu cất bỏ phần lớn điều kiện kinh doanh không có
nghĩa là buông quản lý về điều kiện an toàn, chất lượng, mà là sự thay đổi tư
quy và cách thức quản lý, thật sự chuyển đổi từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Đã đến
lúc cần phải dứt khoát chuyển một phần lờn điều kiện kinh doanh thành tiêu
chuẩn chất lượng (là tự nguyện, không phải là bắt buộc), một phần nhỏ chuyển
thành quy chuẩn chất lượng (bắt buộc) và chỉ để lại rất ít điều kiện kinh doanh
buộc phải đáp ứng được trước khi bắt tay vào kinh doanh. Tức là hàng hoá, dịch
vụ vẫn cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn nhất định, nhưng không phải
tất cả là bắt buộc và chủ yếu là yêu cầu tại thời điểm đưa sản phẩm ra thị
trường chứ không phải là tại thời điểm chưa tiến hành sản xuất, kinh doanh.
Chính phủ kiến tạo, hỗ trợ doanh nghiệp tốt nhất chính
là việc nhanh chóng cắt giảm toàn bộ các điều kiện kinh doanh bất hợp lý, gây
khó khăn, cản trở cho sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
-----------------------------
Bài
được lưu ở đây:
http://www.basico.com.vn/vi-VN/News/List/11/NewsList.aspx
Luật
sư Trương Thanh Đức
ĐC: Công ty Luật BASICO, 84 Triệu Việt Vương, HN
Web: www.basico.com.vn
Email: duc.tt@basico.com.vn
FB: www.facebook.com/LSTruongThanhDuc
ĐT: 090.345.9070
Mô hình
BOT là rất tốt và cần thiết, nhưng chính sách sơ hở và triển khai không chuẩn
thì không khác nào chuyển cơ hội thành rắc rối, chuyển phúc thành hoạ. Chỉ định
nhà đầu tư thiếu năng lực, vốn chủ sở hữu quá thấp, rồi nhà đầu tư lại chỉ định
nhà thầu, cùng với việc Nhà nước cam kết luôn bảo đảm hoàn vốn và có lãi, trong
khi tất cả các khâu then chốt như nguồn vốn đầu tư, việc thi công xây dựng và
việc khai thác, kinh doanh đều do tư nhân quyết định và tự chịu trách nhiệm,
thì không chỉ còn là nguy cơ nữa, mà tất yếu dẫn đến việc đội vốn, đội giá
thành, đội chi phi, kém minh bạch, hiệu quả và nhiều sai lệch bất hợp lý khác.
Hậu quả cuối cùng là người dân, doanh
nghiệp phải trả giá cao, giá thành tăng, hiệu quả thấp, giảm khả năng cạnh
tranh và ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.